Thursday, October 28, 2010

Tháp tuổi Việt Nam và vấn đề giáo dục

Tạm thời đặt viên gạch trước ở đây, khi nào ra trên báo Vietnam Financial Review thì tôi sẽ đăng lên đây sau.

...

Bài này mới đăng trên báo Vietnam Financial Review, nay tôi để ra blog bản chưa qua biên tập. Nội dung chính là ảnh hưởng của vấn đề dân số học lên câu chuyện giáo dục ở Việt Nam.

The flattened age pyramid and the education challenge

Demographic attributes are among the most persistent, most predictable socio-economic characteristics of a country, compared to other variables such as GDP, investment or consumption growth. Given the central role of population in most society-wide phenomena, it should be a key indicator in all forward-looking strategic planning for both public and private purposes. The failure to fully acknowledge this point can be very costly, as illustrated in the case of Vietnam’s education system in recent years.

Vietnam has a unique twentieth century demographic history, with vast impacts of the half-century long wars, economic underdevelopment, a post-war population boom in the late 70s and early 80s, followed by a mild population restriction policy. All these historical traits leave unmistakable marks on the demographic growth and composition. While some of their effects have long been under consideration by policy makers, others seem to be overlooked, leaving humongous consequences.

The reunified Vietnam since 1975 experienced a surge in population similar to the baby boom in the West, somewhat despite economic hardship in the early 1980s. Even though population growth was later kept under control by a series of financial and occupational disincentives against high-fertility families, the age pyramid quickly expanded at the bottom for several generations of children. This particular phenomenon promises a huge demand for education when those children reach their school age in the 1990s and 2000s.

The population growth was coupled with a strong push of urbanization in a typical emerging economy. The urban population share rises about two percentage points a year, with most urban immigrant families focusing on giving their children a better chance. That creates enormous demand pressure on the education infrastructure of large cities.

However predictable it was, that demand trend has not been dealt with properly. The supply side remains rigid until recently, partly due to inadequate national education planning, partly due to stringent bureaucratic red tapes preventing the private sector to step in and fill the gap. In cities, the number of public schools has not grown, while their capacity improved only by a small fraction, mostly in unavoidable situations. Under strong pressure, educational entrepreneurs have slowly been allowed into the picture, first in joint venture with public institutions, and since a few years in independent businesses. Nevertheless, the high costs of licenses, both in time and in other means, have kept the private share of the market relatively low.

More importantly, supply of skilled labor in this profession has not seen much improvement. While education schools may make progress in teaching quality, since the 1990s the quality of incoming students to those schools deteriorates sharply as better students can now choose more lucrative career paths, as opposed to be assigned to a university by a central authority. Consequently, graduating batches of teachers since the late 1990s barely compare to previous generations, many of whom soon reached retirement age. Together with a stagnate capacity of education supply, its real quality has been impoverished by the self-selection out of a low salary career.

Education quality thus starts its decline since the late 1990s, when high, growing demand meets low capacity, low quality supply. Classroom size usually reaches more than 50, and the rationing process in education creates many ugly side effects, such as extra-hour classes by the very same teachers on the same topics for additional remunerations, or student-screening prerequisites starting even before school age. Government-enforced quality control lacks a serious, non-superficial monitoring system, and reform attempts have been staunched by fervent conservative opponents. Market forces, on the other hand, are dysfunctional as too few private schools manage to emerge to bridge the supply-demand gap. Schooling does not mean the same as a generation before, and better-off parents seek all means to support their children with adequate education, including sending them abroad at an earlier and earlier age.

Many experts point out that the remedy lies in the liberalization of the education market to domestic and foreign private entities. Clean and clear competition with enough private competitors who truly value their clients – parents and children – would improve the system and may keep it in check against adverse side effects. In fact, not only should private schools be allowed to freely enter the market, they should also be partly subsidized with land use, since the value they create for the society can largely exceed what the entrepreneurs can reap in return. However, similar to many reform policies, liberalization is always met with a strong group of opponents, be it on ideological, practical or business ground.

While a full-scale liberalization may be out of the near horizon, the education sector is still a highly profitable area of investment, even with the current high fixed costs of starting a business. Young middle-class parents coming from the first wave of baby boom in the 1970s are quick to realize the education conundrum their children are facing now, and will not wait for the government’s intervention to improve their children’s lot. They are already contributing heavily, in money and in time, to the public school education of their children, but they would also be willing to spend more to get them a better, care-free education in private schools. High growth breeds not only more demand of education, but also demand for higher quality that can be more assuredly met by eager, dynamic education investors than the State. The next few years will predictably see new surge in private education institutions, giving the society more, better choices.

Monday, October 18, 2010

Bao giờ cho đến tháng Mười

Mấy ngày hôm nay tôi hay bật tuyển tập các bài hát hay về Hà Nội, theo yêu cầu của mẹ tôi. Có những bài hát gắn liền với kỷ niệm về tiếp quản Thủ đô năm 1954 của mẹ tôi, nhân dịp Hà Nội tổ chức Đại lễ vào đúng ngày 10 tháng 10 nên kỷ niệm cũ cũng dội về. Nghe kể lại, những sự kiện như vậy đánh dấu những cột mốc đặc biệt quan trọng, và để lại những ấn tượng đặc biệt sâu sắc trong cuộc đời mỗi người.

Câu chuyện này làm tôi nghĩ đến nhiều ý nhỏ. Thứ nhất, lại là vấn đề Đại lễ. Người sống lâu năm ở khu vực Hà Nội cũ phần đông cảm thấy bất tiện vì Đại lễ, cảm giác tiêu cực đủ loại từ mức khó chịu đôi chút cho đến bực dọc suốt thời gian diễn ra các sự kiện trong dịp này (điều này chỉ dựa trên quan sát cá nhân của tôi). Cũng dễ hiểu, vì Đại lễ làm xáo trộn, cản trở rất nhiều cuộc sống của người dân, trong khi phần nhiều dân cư khu vực này không thấy việc bỏ tiền ra tổ chức là việc làm thích đáng. Nói rộng hơn, thì đây là dịp sử dụng tiền công quỹ do toàn dân đóng góp (thuế) hoặc toàn dân sở hữu (tài sản nhà nước) để tổ chức một sự kiện cục bộ (cho dù là Thủ đô, vẫn khá cục bộ), ở mức độ cực lớn, nên không ngạc nhiên gì khi rất rất nhiều người đặt rất rất nhiều câu hỏi, và đưa ra đánh giá bi quan về chính sách đặc biệt này. Chuyện này đầy rẫy trên mạng, chắc không cần bàn thêm.

Nhưng chuyện tôi muốn bàn là dịp Đại lễ đã được cho một số lượng lớn người dân ủng hộ. Phần nhiều họ không sống ở trung tâm, thậm chí cũng không sống ở nội thành, nhưng sẵn sàng bỏ ra khá nhiều tiền bạc, và đặc biệt là rất nhiều công sức để đến theo dõi Đại lễ. Họ ít lên tiếng trong những môi trường như blog, nên các bạn và tôi chắc ít có dịp đọc được ý kiến của họ. Tuy vậy, rõ ràng là họ hứng thú sự kiện đến mức có thể bỏ ra nhiều ngày, nhiều tiền (so với thu nhập) để cùng cả gia đình tham gia. Có thể đối với họ, sự kiện ngày 10 tháng 10 năm 2010 cũng để lại những ấn tượng đặc biệt sâu sắc như ấn tượng ngày 10 tháng 10 năm 1954 của mẹ tôi. Có thể họ thậm chí sẵn sàng đánh đổi một chuyến đi du lịch Bali, Brunei hay Bangkok (giả tưởng họ được đề nghị như vậy, với cùng một số tiền bỏ ra) để được tự tham gia sự kiện Đại lễ. Có thể họ sẽ còn kể nhiều về Đại lễ với lòng tự hào và sự hào hứng cho con cháu họ hàng chục năm sau này, điều khó xảy ra với một chuyến đi du lịch bình thường. Vì thế, khi đánh giá phúc lợi của chính sách này, phúc lợi của nhóm người hoan hỉ vì Đại lễ cần phải được cân nhắc, và nó có thể đóng vai trò khá quan trọng.

Ý nhỏ thứ hai, có liên quan đến câu hỏi trước, là giá trị phúc lợi của những hiện tượng, sự kiện xã hội lớn gây ấn tượng sâu sắc đến đông người. Ví dụ như sự kiện Trung Quốc phóng thành công tầu vũ trụ, đối với mỗi người dân, có thể mang nhiều ý nghĩa hình tượng. Bản thân mỗi người dân có thể tự nguyện bỏ ra một số tiền để có được sự kiện như vậy; có thể giá trị trung bình chỉ là $10, thì tổng cộng một sự kiện như thế cũng đem lại ý nghĩa hình tượng đến $10 tỷ. Ví thế, khi tính ích lợi của những chính sách như vậy, cần bao hàm cả những giá trị hình tượng. Quay lại sự kiện Đại lễ của Hà Nội, cách thức và văn hóa tổ chức có thể gây phản cảm với nhiều người có gu văn hóa tinh tế. Tuy vậy, trên phương diện chính sách công thì sự kiện cần phải thỏa mãn gu văn hóa đại chúng, chứ không nhất thiết là gu văn hóa tinh tế (dù đây là điểm gây tranh cãi). Theo mỗi cách nhìn, việc đánh giá sự thành công của sự kiện về mặt văn hóa sẽ rất khác nhau.

Cũng về giá trị hình tượng của các sự kiện, có thể nói trong thế kỷ 20 dân tộc Việt Nam đã có khá nhiều sự kiện ấn tượng sâu sắc, tạo nên những giá trị hình tượng rất lớn với cuộc đời của rất nhiều người dân. Tuy vậy, có những sự kiện mang lại giá trị hình tượng tốt đẹp với một số người, song lại có giá trị hình tượng xấu với những người khác. Do đó, không nhất thiết là lịch sử là một nhà sản xuất giá trị hình tượng lớn cho toàn bộ người Việt. Dù sao, đến cuối thể kỷ 20, đối với phần nhiều người Việt có chia sẻ một lòng tự hào nhất định về lịch sử hiện đại (tách biệt khỏi các vấn đề kinh tế), thì có lẽ giá trị hình tượng của lịch sử cũng tương đối đáng kể.

Còn một vài ý nhỏ khác, nhưng tôi buồn ngủ quá nên đành để sau vậy.

Saturday, October 9, 2010

Phân tích so sánh về bóng đá

Bóng đá tuỳ theo từng nước, từng khu vực cũng có những văn hoá riêng. Văn hoá ở đây nghĩa là phong cách, đường lối chơi bóng mà số đông các cầu thủ, câu lạc bộ của một nước hay khu vực chia sẻ với nhau. Ví dụ như phong cách bóng đá Latin, trong đó có bóng đá Latin ở châu Âu và ở Nam Mỹ, và ở Nam Mỹ cũng có thể tách riêng ra phong cách Brazil, Argentina và phần còn lại. Hôm nay nhân lúc chán chấm bài tôi viết một chút để giải thích (tất nhiên chỉ một phần thôi) sự khác biệt về phong cách bóng đá bởi nguồn gốc kinh tế - xã hội.

Một yếu tố cơ bản của bóng đá là thể hình và thể chất của các vận động viên. Yếu tố này có thể thấy rõ trong các đội bóng Bắc Âu (rõ nhất là Thuỵ Điển và Na Uy). Thể hình cao to dẫn đến phong cách chơi bóng bổng, chuyên về lật cánh đánh đầu rõ rệt. Ngoài ra, yếu tố thể chất cũng đảm bảo rằng các cầu thủ tấn công có khả năng chạy cự ly trung bình và cự ly dài tốt hơn (vì chân dài), nên phong cách này cũng gần với xu hướng chơi bóng dài, tấn công nhanh, đơn giản, điển hình ở Anh. Trong suốt thế kỷ 20 ở Đức cũng có xu hướng như vậy, nhưng tôi sẽ bàn sâu thêm sau.

Có một điểm khác biệt giữa các đội bóng chơi bóng dài, bóng bổng, tấn công đơn giản nói trên. Ở các nước Bắc Âu, chênh lệch thu nhập rất ít, và nền giáo dục đại trà rất tốt. Điều này tạo một nền tảng văn hoá cơ bản tốt cho tất cả mọi người, trong đó có cầu thủ đá bóng. Vì thế, các cầu thủ có tư tưởng chiến thuật khá chặt chẽ, nhiều lúc đến mức máy móc khô khan. Đây là cảm giác khi xem các đội bóng Bắc Âu thi đấu (kể cả đội tuyển quốc gia lẫn CLB), cũng như đội Đức trước đây. Trong khi đó, mức độ chênh lệch thu nhập ở Anh tương đối cao, và hầu hết các cầu thủ bóng đá xuất thân từ tầng lớp lao động (có thể phân biệt rất rõ giọng nói của họ với giọng nói tiếng Anh của tầng lớp trung lưu hay giầu có), không chú ý đến chuyện học hành đầy đủ. Tuy họ có khả năng chơi bóng cá nhân tốt, phần nhiều không đảm bảo tư duy chiến thuật tập thể, dẫn đến kết quả khá tệ hại ở cấp quốc gia. (Một ví dụ khác là tỷ lệ nghiện rượu, tỷ lệ dính scandal của các cầu thủ ở Anh khá cao so với các nước khác, mà không phải vì lý do báo chí ở Anh "lá cải" hơn.) Một đặc điểm khác là các "thần đồng" bóng đá ở Anh được phát hiện và "ngôi sao hoá" khá sớm, dẫn đến việc họ bỏ qua chuyện học hành, vốn sẽ cần thiết cho đầu óc chiến thuật và sự tích luỹ kinh nghiệm có hệ thống. Đây là điểm khá khác biệt với bóng đá Đức: cầu thủ bóng đá ở Đức chín muộn hơn, và trải qua hệ thống học hành kỹ càng hơn. Vì thế phần nhiều có tư duy chiến thuật và khả năng tích luỹ kinh nghiệm nhiều hơn, kể cả khi khả năng chơi bóng cá nhân không tốt bằng.

Cũng là yếu tố chênh lệch thu nhập trong xã hội, song ảnh hưởng của nó lên phong cách bóng đá Latin lại khác. Các nước Nam Mỹ có sự chênh lệch trong xã hội rất lớn, có tỷ lệ người nghèo cao, dẫn đến việc rất đông trẻ em nghèo chỉ có thể làm bạn với trái bóng. Một vấn đề khác là trẻ em nghèo không có sân bãi đầy đủ, cũng không có thời gian biểu rõ ràng để có thể tập hợp thành đội bóng 11 người, nên phần lớn chỉ chơi bóng với số lượng nhỏ, chủ yếu là luyện tập kỹ thuật cá nhân. Đây là nguồn gốc của phong cách Latin, và dễ thấy là nơi có nhiều người nghèo nhất, Brazil, chính là nơi mang đậm dấu ấn kỹ thuật cá nhân nhất. Cũng như vậy, ở châu Âu, những khu vực nghèo, như miền Nam nước Ý, thường đào tạo ra các cầu thủ có kỹ thuật cá nhân tốt. Ở Pháp, làn sóng người nhập cư nghèo cũng tạo nên phong cách kỹ thuật cá nhân này - và có lẽ bóng đá Pháp cũng chỉ thực sự nổi trội được từ khi có rất nhiều người nhập cư từ thập kỷ 1970. (Platini hay Zidane đều là con của người nhập cư, mặc dù gia đình Platini thì không nghèo.)

Giữa các nước Nam Mỹ, thì phong cách Latin cũng được pha trộn với sự tính toán về chiến thuật ở các mức độ khác nhau, và một nhân tố ảnh hưởng là tỷ lệ dân số có nguồn gốc châu Âu. Argentina có chính sách nhập cư tương đối phân biệt, nên người nhập cư chủ yếu có nguồn gốc châu Âu, ngoài Tây Ban Nha còn có Ý, Đức, Pháp và các nước Trung - Đông Âu. Trong khi đó, ở Brazil có sự pha trộn rất nhiều giữa người nhập cư châu Âu và châu Phi (nguồn gốc chủ yếu là nô lệ ở đồn điền). Ở các nước phía Tây dẫy Andes, tỷ lệ nhập cư châu Âu cũng ít hơn, và có sự pha trộn nhiều với người da đỏ bản địa. Sự khác biệt này ảnh hưởng đến tỷ lệ học vấn của nhóm người thu nhập thấp, nơi xuất thân của phần đông cầu thủ bóng đá. Vì thế, bóng đá Argentina có dấu ấn châu Âu hơn cả trong số các nền bóng đá Nam Mỹ.

Cũng như vậy, ở châu Âu, trong các nước có văn hoá bóng đá Latin (kể cả Italy), những đội bóng ở khu vực giầu có hơn thường mang dấu ấn chiến thuật nhiều hơn, và ít có dấu ấn kỹ thuật cá nhân hơn so với các đội bóng ở khu vực nghèo. Ví dụ đáng kể là các đội ở Bắc Italy (Milan, Inter, Juventus) so với Nam Italy (Roma, Napoli), hay Real Madrid so với các đội nghèo ở Tây Ban Nha. Phong cách kỹ thuật của Barcelona là một ngoại lệ, nhưng cũng cần chú ý rằng phong cách này thường xuất phát từ các cầu thủ nhập cư, trong khi các cầu thủ xuất thân từ Barcelona thì lại nổi trội nhờ có tư duy chiến thuật tốt hơn.

Bài viết này tạm dừng ở đây, vì tôi đã hết chán chấm bài. Như đã nói ở đầu, đây chỉ là lời giải thích một phần, có thể chỉ là một phần nhỏ, cho những sự khác biệt về văn hoá bóng đá thế giới. Phản ví dụ có nhiều, và mỗi phản ví dụ lại cần phải dẫn ra những lời diễn giải khác. Chẳng hạn, tôi không so sánh những ví dụ nói trên với nhiều môi trường đông người nghèo khác như Trung Quốc, Ấn Độ, nơi bóng đá trở nên đại chúng muộn hơn, và vì rất nhiều yếu tố khác, trong đó có yếu tố thể chất, ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển của bóng đá. Tôi cũng chưa so sánh với nhiều nước châu Phi như Nigeria, Côte d'Ivoire vv., điển hình về các cầu thủ có thể hình tốt song lại chọn cách chơi bóng theo kỹ thuật cá nhân, và nhìn chung là thiếu tư duy chiến thuật. Một ví dụ khác cũng khá thú vị là sự phát triển bóng đá ở Mỹ. Có lẽ tôi sẽ nhắc lại câu chuyện này ở một bài viết sau.