Paul Krugman mới viết bài trên
New York Times dựa trên nghiên cứu của
Philippon và Reshef, được Dr. Trần trên
blog Minh Biện dịch lại, tựa đề "Hãy làm ngân hàng tẻ nhạt". Từ khi bắt đầu khủng hoảng, Krugman cho rằng ngành tài chính phần lớn tạo ra giá trị ảo, và tất cả đã "nổ bong bóng". Tôi không hoàn toàn đồng ý vậy, thậm chí nghĩ là quan điểm này của Krugman có phần hơi trái ngược với đánh giá của ông rằng nền kinh tế đang ở trong trạng thái thiếu cầu, và cần nhất là chính sách kích cầu.
Tôi vẫn tin rằng ngành tài chính có đóng góp rất lớn cho tăng trưởng, đặc biệt là hệ thống tài chính ở các nước nghèo ảnh hưởng sống còn đến khả năng tăng trưởng và bắt kịp các nước giầu. Philippe Aghion (thầy tôi), Peter Howitt và David Mayer-Foulkès
nghiên cứu và chỉ ra rằng mức độ phát triển tài chính là chìa khóa giúp các nước nghèo bắt kịp trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến hàng đầu; hay chính xác hơn là nếu không có hệ thống tài chính đủ mạnh, thì nước nghèo mãi mãi không đuổi kịp được các nước giầu (khi mà tăng trưởng là nội sinh). Khái niệm mức độ phát triển tài chính được
Ross Levine phát triển cùng nhiều cộng sự, và được xem là có ảnh hưởng rất sâu và rộng đến nhiều vấn đề phát triển, chứ không phải chỉ có tăng trưởng.
Có thể phản biện lại rằng việc đẩy mạnh ngành tài chính chỉ có ích với các nước đang phát triển, trong khi ở các nước phát triển thì nó dễ mang lại rủi ro khủng hoảng. Nhưng ở các nước phát triển, ngành tài chính đóng góp công lớn trong việc huy động vốn ủng hộ những dự án cần đầu tư nhiều, lợi nhuận cao dù có tính rủi ro cao: ví dụ như nghiên cứu và phát triển thuốc, công nghệ thông tin, và các công nghệ tiên phong khác. Đấy chính là động lực tối ưu tạo tăng trưởng bền vững ở các nước giầu, khi mà họ không thể dựa vào lao động cật lực hay tiết kiệm chắt chiu (như các con rồng, con hổ Đông Nam Á), và cũng không thể dựa vào việc bắt chước lại công nghệ đỉnh cao (vì chính họ đã nằm trên đỉnh cao rồi).
Nhìn trên quan điểm tài chính phục vụ tăng trưởng, thì giá trị ngành này mang lại cũng phụ thuộc vào viễn cảnh tăng trưởng. Hiện giờ viễn cảnh tăng trưởng ảm đạm, nên ngành tài chính không tạo ra được gì mấy, do đó sự sụp đổ là điểm nổi bật trong bức tranh toàn ngành. Nếu như đây thực sự là khả năng cân bằng duy nhất trong hiện tại và tương lai, thì chúng ta phải công nhận là ngành tài chính trong thời gian cao trào chỉ tạo ra bong bóng, và hiện nay không có cách giải quyết khủng hoảng nào khác ngoài việc nhặt cỏ dại, cho phá sản hàng loạt để làm sạch cả nền kinh tế. Ít người tin vào điều này, và Krugman đặc biệt khẳng định ngược lại rằng tình trạng hiện thời có thể giải quyết được bằng việc kích cầu cực mạnh để chuyển sang một cân bằng tốt hơn nhiều, trong hiện tại lẫn tương lai gần. (Trong tương lai xa, như Keynes nói, thì chúng ta đều tỏi.) Trong trường hợp này, khi gói kích cầu giải quyết khủng hoảng như vậy, tôi đoán chắc là giá trị ngành tài chính lại được nâng lên đáng kể.
Khi ngành tài chính mang lại nhiều giá trị, thì không ngạc nhiên gì khi nhân công trong ngành được trả lương rất cao. Và nhân công cấp cao thì lương và thù lao càng cao hơn gấp bội. Thời gian gần đây có rất nhiều nghiên cứu giải thích hiện tượng CEO hưởng thu nhập khổng lồ, nổi bật như nghiên cứu của
Gabaix và Landier. Gabaix và Landier cho thấy là có thể giải thích mức tăng chóng mặt của lương CEO thời gian gần đây chỉ nhờ vào giá trị tăng của các công ty, chứ không nhất thiết vì CEO giỏi kinh khủng, hay vì họ gian lận và kiếm lời bất chính.
...
Bài này viết từ nhiều hôm trước mà chưa đăng, hôm nay Krugman lại có
bài viết chê bai tăng năng suất của ngành tài chính ở Mỹ. Ở thời điểm này, khó biết xác đáng hiện thực như thế nào. Nhưng tôi nghiêng về cách giải thích rằng ngành tài chính có giá trị thực sự, rằng nó sẽ phục hồi và lại nở rộ, và mức thu nhập trong ngành, đặc biệt là cho nhân sự cấp cao, sẽ lại tăng rất mạnh.
Update: Dịch giả trên Minh Biện là Dr. Trần, trong bản đầu tiên tôi nhầm là Dự Trần. Lỗi đã sửa, cảm ơn anh Linh chỉ.
Update: Bác Giang, ý tôi về mâu thuẫn cụ thể là nếu như có cơ hội để chính sách kích cầu thành công, thì có nghĩa là những đánh giá hiện giờ về ngành tài chính (khi chưa/không có kích cầu) là đánh giá thấp hơn (nhiều) so với tiềm năng thực thụ nếu có kích cầu. Như vậy, nếu như kích cầu là đúng, thì không nên chỉ dựa vào con số hiện tại mà nói rằng ngành tài chính không mang lại giá trị gì.
Nhận định của bác về IB vs. traditional banking rất hợp lý. Tôi nghĩ là giá trị của IB đối với toàn nền kinh tế rất cao, và bây giờ có lẽ đang bị đánh giá thấp (so với scenario có cứu trợ kích cầu đầy đủ). Ngoài những yếu tố bác nói đã dẫn đến cuộc khủng hoảng hiện giờ, tôi nghĩ một yếu tố quan trọng (có thể là quan trọng nhất) là sự thừa thãi vốn ở thị trường Mỹ (vì giá đồng USD, vì current account deficit, vì savings glut, về demand for dollars vv.), dẫn đến việc ngành tài chính tìm đủ mọi cách để kiếm thêm tiền từ dòng vốn này.
Hậu khủng hoảng, có xu hướng tăng cường điều tiết bởi Nhà nước, như Krugman cổ xúy, hay như các nước châu Âu nhằm vào. Cũng có thể làm cách khác, là mở rộng thêm thị trường tài chính để bảo hiểm thêm hầu hết các rủi ro vĩ mô ít gặp phải. Dù rằng tôi không rõ ai có thể thực sự đứng ra bảo hiểm những rủi ro kiểu đó. Mấy hôm nay tôi đang đọc qua nền tảng các khái niệm risk và uncertainty trong kinh tế học (vNM và Savage), hôm nào đó chắc sẽ viết thêm về mối liên quan đến ngành tài chính.